Hiệp định RCEP được dự đoán sẽ có thể vượt qua những trở ngại cải cách thương mại và biến khu vực này thành trung tâm thương mại toàn cầu.
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) – thỏa thuận thương mại lớn nhất thế giới – có hiệu lực vào đầu năm 2022. 15 quốc gia thành viên của hiệp định chiếm 30% dân số thế giới, 29% GDP toàn cầu, 27% thương mại toàn cầu và 29% đầu tư trực tiếp nước ngoài toàn cầu.
Hiệp định RCEP được dự đoán sẽ có tác động thương mại gần 42 tỷ USD và biến khu vực này thành trung tâm thương mại toàn cầu. Sự phụ thuộc lẫn nhau về thương mại hiện có giữa các nước RCEP cũng sẽ thúc đẩy sự phát triển của các chuỗi giá trị khu vực phức tạp hơn trong ‘công xưởng châu Á”.
Với những tác động kinh tế tiềm tàng của hiệp định thương mại lớn, nhiều người đã đặt câu hỏi về chất lượng của hiệp định. Mặc dù RCEP nhằm mục đích củng cố các FTA ASEAN + 1 hiện có, nhưng cũng đã làm tăng thêm sự phức tạp cho các FTA song phương và khu vực chồng chéo hiện có của khu vực, đồng thời cung cấp các biện pháp cắt giảm thuế quan ít gay gắt hơn so với các hiệp định thương mại hiện đại khác. ‘Phương thức ASEAN’ của RCEP được xác định bằng các cam kết dần dần có tính đến các cấp độ phát triển khác nhau của các quốc gia. Thay vì một cam kết thuế quan duy nhất, mỗi thành viên sẽ thiết lập các cam kết cắt giảm thuế cụ thể liên quan đến các quốc gia thành viên xuất khẩu khác với khung thời gian thực hiện là 20 năm.
Hiệu quả của RCEP trong việc thúc đẩy thương mại hàng hóa có thể được giảm bớt do sự nổi bật ngày càng tăng của các biện pháp phi thuế quan. Có hơn 6.000 biện pháp can thiệp được thực hiện bởi các quốc gia thành viên RCEP chống lại nhau, với gần 600 biện pháp can thiệp bắt đầu kể từ khi thỏa thuận được ký kết vào tháng 11/2020. Những can thiệp này bao gồm nhiều loại rào cản kỹ thuật khác nhau đối với thương mại, các biện pháp phòng vệ thương mại, trợ cấp, cấp phép, các biện pháp hàm lượng giá trị nội địa và các loại biện pháp xuất khẩu khác nhau. Trong khi đó, không có cam kết nào về việc cấm các hàng rào thương mại phi thuế quan được nêu rõ ràng trong 20 chương của văn kiện RCEP.
Theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển châu Á, các điều khoản của RCEP liên quan đến các biện pháp phi thuế quan không bao hàm điều khoản của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và ít toàn diện hơn so với Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Ví dụ, chương về các biện pháp phòng vệ thương mại dường như vẫn để lại quyền quyết định đồng thời gây thêm nghi ngờ về việc thực thi hiệu quả và khả năng dự đoán của các nhượng bộ thuế quan.
Hiệp định RCEP không yêu cầu cải cách thực chất trong lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ để giải quyết các vấn đề cạnh tranh và doanh nghiệp nhà nước, cũng như không giải quyết thỏa đáng các vấn đề thương mại điện tử. Và thỏa thuận không có gì để nói về các mối quan tâm về môi trường hoặc lao động. Ngoài các cam kết RCEP, sáng kiến từ các quốc gia thành viên là điều cần thiết để cắt giảm các biện pháp phi thuế quan.
Ngay cả sau khi Hiệp định RCEP có hiệu lực vào năm 2022, một số quốc gia vẫn đang thực hiện các biện pháp phi thuế quan đơn phương. Indonesia – nước chưa phê chuẩn hiệp định – gần đây đã thực hiện các biện pháp kiểm soát xuất khẩu đối với các sản phẩm dầu cọ thô, chẳng hạn như cấp phép xuất khẩu, hạn ngạch và lệnh cấm tạm thời. Philippines – nước cũng chưa phê chuẩn Hiệp định RCEP. Các thành viên kém phát triển nhất của ASEAN – Campuchia, Lào và Myanmar – có thể gặp khó khăn trong việc thực hiện và gặt hái những lợi ích của RCEP, đặc biệt là về các điều khoản mới của WTO. Các nước thành viên cần đảm bảo các chính sách và lợi ích trong nước của họ phù hợp với RCEP.
Điều đó thể hiện vai trò của RCEP trong việc tăng cường thương mại giữa các thành viên. RCEP hợp lý hóa và hài hòa hóa các quy tắc xuất xứ của nhiều FTA ASEAN + 1 bằng cách coi toàn khu vực. Điều này sẽ làm giảm đáng kể các phức tạp về chuỗi cung ứng và hành chính đồng thời cải thiện tỷ lệ sử dụng của thỏa thuận. Các điều khoản thể chế RCEP cũng có một vai trò quan trọng. Với việc thành lập một ủy ban chung và cơ quan trực thuộc, có thể được thảo luận và xem xét các đề xuất sửa đổi – mở ra khả năng cải thiện các chương liên quan đến các biện pháp phi thuế quan. Quan trọng hơn, cơ quan phụ trách thương mại hàng hóa có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc hài hòa các tiêu chuẩn và thủ tục hải quan.
Giống như WTO, RCEP cũng có một chương về các cơ chế giải quyết tranh chấp. Mặc dù có thể tranh luận về tính hiệu quả của cơ quan phúc thẩm của WTO, nhưng cơ quan này đã được các thành viên sử dụng rất hiệu quả. Một cơ chế giải quyết tranh chấp tương tự cho các thành viên RCEP cũng sẽ có lợi trong việc giảm bớt các biện pháp phi thuế quan có hại.
Hiệp định RCEP đang thiết lập khu vực thương mại lớn nhất trên thế giới, thuận lợi cho việc cắt giảm các biện pháp phi thuế quan – mặc dù cam kết hiện còn khiêm tốn và dự kiến chỉ cắt giảm thuế quan tương đối. Đóng góp quan trọng nhất của RCEP là sự hài hòa các quy tắc xuất xứ, có ý nghĩa tích cực đáng kể đối với chuỗi giá trị toàn cầu của khu vực. Tuy nhiên, RCEP sẽ không tự động mang lại các lợi ích – các nước thành viên phải đảm bảo rằng các chính sách trong nước nhất quán với thỏa thuận, để thu được những lợi ích lớn nhất.
Nguồn: Báo Công Thương (09/06/2022)