Thị trường nhập khẩu giày dép của Canada khá tập trung, với 10 đối tác chính chiếm trên 90% thị phần. Mười đối tác xuất khẩu giày dép nhiều nhất vào Canada năm 2018 lần lượt là: Trung Quốc, Việt Nam, Ý, Campuchia, Indonesia, Hoa Kỳ, Bồ Đào Nha, Bangladesh, Ấn Độ, Tây Ba Nha. Năm 2018, Trung Quốc chiếm tới 45% thị phần giày dép nhập khẩu của Canada, trong khi đó Việt Nam đứng thứ hai chỉ chiếm 19%. Kể từ sau CPTPP, mặc dù tốc độ tăng trưởng kim ngạch da giày của Việt Nam sang địa bàn không cao như của dệt may hay điện tử điện máy nhưng trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ của Canada giảm mạnh do Covid (giãn cách xã hội và làm việc tại nhà kéo dài), với tốc độ tăng trưởng 12%, Việt Nam đã thành công chiếm lĩnh thêm thị phần với tỷ lệ 25% hiện nay (trong khi Trung Quốc giảm xuống còn 34%).
Nhu cầu thị trường Canada với giày dép đế cao su mũi tổng hợp
(mã HS 6404) |
||||||
2017 | 2018 | 2019 | 2020 | 2021 | % | |
Việt Nam | 205,198 | 221,172 | 244,955 | 218,124 | 241,553 | 9 |
Các nước | 501,749 | 511,735 | 500,324 | 345,918 | 407,920 | -20 |
Tổng nhu cầu nhập khẩu | 706,947 | 732,907 | 745,279 | 564,042 | 649,472 | -11 |
Trong 10 nước xuất khẩu lớn nhất vào thị trường Canada, đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Việt Nam là Campuchia (được hưởng GST) và Indonesia (sắp ký kết Hiệp định hợp tác kinh tế toàn diện CEPA với Canada). Ấn Độ và Bangladesh có thị phần không đáng kể và ngày càng giảm qua các năm. Italia, Bồ Đào Nha, Tây Ba Nha không sản xuất hàng cùng phân khúc với Việt Nam. Trung Quốc hiện cũng giảm dần tỷ trọng gia công cho các thương hiệu nước ngoài mà chủ yếu xuất khẩu vào Canada các loại giày dép thời trang, giày dép đi trong nhà, giày dép đi biển và giày thể thao giá rẻ.
Xét giá trị tuyệt đối, năm 2021, Trung Quốc là nước xuất khẩu nhiều nhất vào Canada, với 734 triệu USD. Việt Nam đứng thứ hai với 543 triệu USD; Italia với 247 triệu USD, Campuchia với 133 triệu USD và Indonesia với 89 triệu USD. Trong 9 tháng đầu năm 2022, theo số liệu sở tại, sản phẩm da giày của Việt Nam vào thị trường tăng mạnh để thoả mãn nhu cầu tăng cao của thị trường. Việt Nam đã xuất 585 triệu USD vào thị trường và dự kiến cả năm 2022, xuất khẩu da giày vào thị trường Canada sẽ vượt mức 700 triệu USD nếu tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức 28.5% so với cùng kỳ 9 tháng năm 2021.
Về lĩnh vực mặt hàng, Việt Nam có thế mạnh tuyệt đối tại Canada so với các đối thủ cạnh tranh đối với mã HS 6404 (giày dép có đế cao su và mũi giày bằng vải tổng hợp. Trước CPTPP, chúng ta có 30% thị phần, đến nay, đã tăng lên 37%, với kim ngạch xuất khẩu trung bình giai đoạn 2018-2021 là trên 230 triệu USD/năm (tương đương 45% tổng kim ngạch xuất khẩu vào Canada).
Mã HS 6403 cũng là mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất vào Canada, với tỷ trọng 37% trong tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép vào thị trường. Kể từ sau CPTPP, giá trị xuất khẩu mặt hàng này tăng khá nhanh, đạt 12% so với năm 2018 (không kể năm 2020 do tác động Covid). Năm 2021, Việt Nam đã xuất 200 triệu USD, chiếm 23% thị phần. Trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng của Canada đối với mặt hàng này giảm mạnh, việc Việt Nam tiếp tục mở rộng thị phần và tốc độ tăng trưởng kim ngạch cho thấy tác động tích cực của CPTPP cũng như tiềm năng phát triển hơn nữa của mặt hàng này tại thị trường.
Nhu cầu thị trường Canada với giày dép đế cao su mũi da
(mã HS 6403) |
||||||
2017 | 2018 | 2019 | 2020 | 2021 | % | |
Việt Nam | 161,190 | 178,120 | 201,595 | 161,280 | 200,415 | 12 |
Các nước | 908,250 | 928,633 | 884,400 | 586,699 | 676,994 | -27 |
Tổng nhu cầu nhập khẩu | 1,069,441 | 1,106,753 | 1,085,995 | 747,979 | 877,410 | -20 |
Mã HS 6402 cũng là một mặt hàng có triển vọng tăng trưởng khá tốt. Hiện nay Việt Nam có 17% thị phần so với năm 2018 là 14%. Hàng năm, cứ 5 đôi giày dép Canada nhập có 1 đôi giày dép thuộc mã HS 6404. Mặc dù hiện nay, mã HS 6402 mới chỉ chiếm tỷ trọng chưa đến 14% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường nhưng với thế mạnh về nguồn cung ứng cao su tại chỗ với mức giá cạnh tranh, đây là một mặt hàng Việt Nam có nhiều lợi thế để cạnh tranh tại Canada để tiếp tục mở rộng thị phần.
Nhu cầu thị trường Canada với giày dép đế và mũi cao su hoặc plastic
(mã HS 6402) |
||||||
2017 | 2018 | 2019 | 2020 | 2021 | % | |
Việt Nam | 59,600 | 66,729 | 79,628 | 64,746 | 74,937 | 12 |
Các nước | 393,188 | 399,505 | 402,480 | 310,086 | 361,695 | -9 |
Tổng nhu cầu nhập khẩu | 452,787 | 466,234 | 482,108 | 374,832 | 436,632 | -6 |
Đối với các mã HS 6401, HS 6406, Việt Nam có thị phần nhỏ, mỗi năm xuất khẩu trung bình 5 triệu USD tổng hợp cả hai mặt hàng. Riêng mã HS 6405, tuy giá trị không cao, nhưng đây là mặt hàng có mức tăng trưởng cao nhất sau CPTPP (41%). Hiện nay, Việt Nam chiếm 27% thị phần tại Canada với mặt hàng HS 6405 và triển vọng còn tiếp tục tăng.
Dự kiến năm 2022, lần đầu tiên xuất khẩu da giày của Việt Nam vào thị trường Canada sẽ vượt mức 700 triệu USD, nghĩa là tăng gấp 3.5 lần so với cách đây 10 năm và gần 1.5 lần so với trước CPTPP. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch và thị phần da giày của Việt Nam tại Canada cho thấy hiệu ứng tích cực của hiệp định mang lại, Tuy nhiên, để tốc độ tăng trưởng kim ngạch vào địa bàn bền vững và để mở rộng thị phần, các doanh nghiệp Việt Nam cần sớm chuyển đổi theo hướng xây dựng thương hiệu riêng. Trung Quốc là ví dụ chuyển đổi thành công từ gia công cho các thương hiệu đa quốc gia sang chuyên môn hoá sản xuất giày dép giá rẻ, thời trang cho thế giới. Vì vậy, sau một giai đoạn sụt giảm tăng trưởng kim ngạch và thị phần, 9 tháng đầu năm 2022, Trung Quốc đã ghi nhận mức tăng trưởng kim ngạch cao tới 47% so với cùng kỳ năm trước, trong khi số liệu của Việt Nam chỉ là 28.5%. Trong các nước cùng phân khúc, Việt Nam cũng là nước có tốc độ tăng trưởng kim ngạch 9 tháng thấp nhấp (mức trung bình là 39.7%).
Nghiên cứu số liệu sở tại[1] công bố năm 2016 cho thấy giá nhập khẩu trung bình mỗi đôi giày mã HS 640391 vào Canada là 43 USD. Đối với mã hàng này, giá trung bình của Indonesia là cạnh tranh nhất (32 USD), giá trung bình của Việt Nam là 37 USD. Đối với mã HS 640411, giá trung bình nhập khẩu của thị trường là 22 USD bằng giá của Việt Nam, trong khi giá của Campuchia và Indonesia cạnh tranh hơn nhiều. Đối với mã 640419, giá nhập khẩu của thị trường là 11 USD, trong khi giá của Việt Nam là 21 USD. Đối với mặt hàng này, Trung Quốc chiếm lợi thế tuyệt đối về giá. Tương tự như vậy với mã 640299, giá trung bình nhập khẩu của thị trường là 11 USD, trong khi giá của Việt Nam là 14 USD. Phân tích số liệu cho thấy, mặc dù giá của Việt Nam còn khá cạnh tranh đối với mặt hàng mã 640391và 640411 nhưng về lâu dài, với CEPA, Indonesia sẽ cạnh tranh rất lớn với Việt Nam. Tương tự như vậy với trường hợp của Campuchia được hưởng GSP và giá nhân công của nước này thấp hơn của Việt Nam nhiều. Trong 9 tháng đầu năm 2022, tốc độ tăng trưởng kim ngạch của hai nước này lần lượt là 61% và 50%.
Phân tích đối thủ cạnh tranh trên thị trường Canada cùng phân khúc như Trung Quốc, Indonesia, Ấn Độ, Bangladesh cũng cho thấy Việt Nam khá yếu về chuỗi cung ứng hoàn chỉnh cho ngành. Ấn Độ và Bangladesh có thế mạnh về da thuộc và vật liệu tổng hợp. Indonesia, ngoài da giày còn có cao su, gỗ, sợi tổng hợp. Các nước này còn có công nghệ nhuộm, làm da giả và da thuộc trình độ cao. Các phụ liệu bằng sắt dùng trong giày dép cũng sẵn có, giúp kiến tạo năng lực thiết kế và tạo kiểu dáng mới.
Nói cách khác, chiến lược gia tăng kim ngạch dựa vào các đơn hàng gia công và dựa vào phân khúc thị trường trung cấp là khó khả thi vì Việt Nam không có nhiều lợi thế cạnh tranh. Ở phân khúc cao cấp, các nhà sản xuất nội địa Canada tiếp tục chiếm giữ thị phần ổn định do nắm giữ kinh nghiệm thị trường cho các mặt hàng đặc chủng (giày đi tuyết, giày chơi thể thao mùa đông…) và nhờ ý thức ủng hộ các thương hiệu nội địa của người dân Canada. Bên cạnh đó, trong phân khúc cao cấp, Việt Nam khó có năng lực vượt qua các đối thủ cạnh tranh như Italia, Tây Ba Nha, Bồ Đào Nha, Đức… vì đây là những nước có truyền thống thuộc da và có công nghiệp phụ trợ để thực hiện các mặt hàng cao cấp (khoá móc, zip, lông thú…).
Sản xuất thương hiệu riêng của Việt Nam cần hướng vào phân khúc thu nhập trung bình thấp của giới trẻ, chịu khó thay đổi và sẵn sàng tiêu dùng vì đây vẫn còn là các thị trường ngách nhiều tiềm năng, có biên độ lợi nhuận cao. Các doanh nghiệp Việt Nam cần tích cực tham gia các Hội chợ, triển lãm quốc tế vì đây vừa là cơ hội làm việc trực tiếp với các nhà mua buôn để tìm kiếm các đơn hàng gia công vừa là cơ hội để mở rộng khả năng tham gia vào các phân khúc giày dép thời trang, giày dép đi biển, giày dép trẻ em và giày dép trong nhà… Ngoài ra, cũng có thể tính đến chuyên môn hoá vào các loại giày dép đặc chủng, giày dép bảo hộ, giày đồng phục công nghiệp (giày làm hầm lò, giày phòng cháy, giày làm nghề gỗ…) để có thị trường và thương hiệu riêng uy tín, tránh phụ thuộc vào các đơn hàng gia công và các điều kiện của đối tác vì Việt Nam sẽ sớm không còn ưu thế về giá nhân công (Nike đang chuyển dần tỷ trọng sản xuất sang Indonesia là một ví dụ).
Canada hiện có 38.83 triệu dân và có lượng nhập cư dự đoán ổn định ở mức 400.000 người năm để đạt quy mô dân số 100 triệu người vào năm 2100. Khoảng 12 triệu người tiêu dùng Canada ở độ tuổi 35-44 – là độ tuổi tiêu dùng giày dép nhiều nhất. Gần một nửa thị trường giày dép bán lẻ là giày nữ. Là top 5 nước tiêu dùng nhiều giầy dép nhất trên thế giới, xu thế này sẽ còn tiếp diễn, đảm bảo cho thị trường Canada tăng trưởng ổn định và có khả năng dự báo. Tuy nhiên, về ngắn hạn, do tác động của lạm phát, người tiêu dùng Canada sẽ giảm tiêu dùng đối với các mặt hàng không quá cấp thiết như giày dép, nhất là trong bối cảnh Chính phủ và doanh nghiệp Canada vẫn cho lựa chọn làm việc tại nhà. Dự báo các mặt hàng giày dép được tiêu dùng nhiều trong thời gian tới tiếp tục là giày thể thao, dép ở nhà và giày thời trang giá rẻ. Người tiêu dùng Canada quan tâm nhiều đến các chứng chỉ xác nhận quy trình sản xuất xanh, bền vững, và công bằng (bình đẳng giới) của doanh nghiệp (WRAP, LEED). Ngoài ra, người tiêu dùng Canada cũng rất quan tâm đến sản phẩm dán nhãn Eco, chứng nhận vật liệu (GOLS, FSC, Oeko-Tex 100, GOTS…) và khả năng tái chế[2] của sản phẩm. Vì vậy, các doanh nghiệp da giày Việt Nam phải tích cực chuẩn hoá, đổi mới quy trình sản xuất, đồng thời cần chuẩn bị cả theo hướng tự động hoá, giảm hàm lượng nhân công trong sản xuất để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Về quy định liên quan đến sản phẩm giày dép, luật điều chỉnh chủ yếu là Luật an toàn sản phẩm tiêu dùng Canada. Luật chủ yếu để đảm bảo người tiêu dùng không mua phải các sản phẩm không an toàn hoặc nguy hại cho sức khoẻ. Đối với sản phẩm giày dép, cần lưu ý thêm quy định về quảng cáo và dán nhãn hàng hoá dệt may, chủ yếu là các nhãn hướng dẫn sử dụng (theo quy chuẩn của Hội đồng tiêu chuẩn quốc gia Canada). Cơ quan các vấn đề tiêu dùng và Cơ quan cạnh tranh Canada giám sát việc sử dụng nhãn Eco-label. Khi xuất khẩu sang Canada, nhà nhập khẩu/nhà bán lẻ sẽ yêu cầu được cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến sản phẩm (địa chỉ sản xuất, nguồn gốc thành phần). Trên sản phẩm khi bán còn phải có đầy đủ thông tin của nhà nhập khẩu, nhà bán lẻ. Theo Phụ lục E của Quy định Quảng cáo và Ghi nhãn Hàng dệt may của Canada, “giày bao ngoài, ủng, giày, dép đi trong nhà, lót giày, [và] lót giày” đều được miễn các yêu cầu ghi nhãn của Đạo luật Ghi nhãn Hàng dệt may.
Hiện nay, da giày là sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam có kim ngạch lớn thứ 5 vào Canada. Năm 2021, theo số liệu sở tại, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 543 triệu USD vào thị trường Canada, tăng 12% trong giai đoạn 2018-2021. Luân phiên hàng năm, tại Canada có một số hội chợ liên quan trong lĩnh vực như:
- Hội chợ công nghiệp da giày do Hiệp hội da giày và may mặc Canada tổ chức tháng 2 và tháng 8 hàng năm
- Hội chợ Dệt may và da giày toàn cầu do Tập đoàn Cocktail Int tổ chức ở Toronto vào tháng 3 hàng năm.
Các doanh nghiệp quan tâm, mời truy cập Trang thông tin của Thương vụ tại vntradetoca.org và liên hệ với Thương vụ qua email: ca@moit.gov.vn; vntradetoca@gmail.com.
[1] https://www.iccc.or.id/wp-content/uploads/2020/08/Market-Research-Report-Footwear-February-2017.pdf
[2] Xem thêm bài Các quy định mới của Canada về bao bì nhựa.