Thúc đẩy hợp tác đầu tư song phương giữa Việt Nam và Canada

9391

Từ 2003 đến nay, theo số liệu của sở tại, Canada có 64 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng giá trị là 7.95 tỷ CAD, tương đương 6.3 tỷ USD. Con số này có sự khác biệt so với ghi nhận tại Bộ Kế hoạch và đầu tư Việt Nam, theo đó, tổng giá trị đầu tư của Canada vào Việt Nam từ trước đến nay mới đạt 4.81 tỷ USD, với 231 dự án. Mặc dù chiếm chưa đến 3% tổng đầu tư của Canada vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Việt Nam hiện đứng thứ 6 về giá trị trong số các nước châu Á-Thái Bình Dương nhận đầu tư từ Canada. Nhờ sự gần gũi về ngôn ngữ (cùng là thành viên của Francophonie); các mối liên hệ hợp tác mật thiết trong khuôn khổ APEC, CPTPP và triển vọng tiếp theo là IPEF; và sự giao lưu văn hoá-giáo dục của hơn 300.000 sinh viên và cộng đồng người Việt tại Canada, triển vọng hợp tác đầu tư song phương Việt Nam-Canada là rất khả quan.

Trong ASEAN, hiện nay mới chỉ có Việt Nam và Singapore phê chuẩn và là thành viên của CPTPP (Malaysia chưa phê chuẩn). Việt Nam cũng có lợi thế là nước duy nhất trong ASEAN đến nay có các cơ chế hợp tác song phương toàn diện như: Hiệp định đối tác toàn diện Việt Nam-Canada (2017); Uỷ ban hỗn hợp kinh tế Việt Nam-Canada JEC (2021)[1]. Đây là những lợi thế to lớn để thúc đẩy quan hệ hợp tác đầu tư song phương, cả thu hút FDI lẫn thúc đẩy đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài.

Tuy nhiên, trong 10 năm qua, danh sách 10 nước nhận đầu tư nhiều nhất của Canada ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương chưa năm nào có tên Việt Nam. Cũng theo số liệu của Canada, từ đầu năm 2020, không có dự án đầu tư mới nào của Canada vào Việt Nam.Trong cả 2 báo cáo về đầu tư với độ dài gần 100 trang do APF mới công bố năm 2022, Việt Nam không xuất hiện một lần nào cả về đánh giá tình hình lẫn dự báo. Sự chững lại về mối quan tâm của các doanh nghiệp Canada đối với thị trường Việt Nam đã giải thích sự dịch chuyển dòng vốn của Canada sang các thị trường Đông Nam Á cạnh tranh với Việt Nam như Indonesia, Malaysia, Singapore, Thái Lan.

Theo báo cáo của APF, trong số các thị trường mới nổi ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, các doanh nghiệp Canada tiếp tục thể hiện sự quan tâm hàng đầu đến Ấn Độ và Indonesia. Đến nay, qua các Diễn đàn xúc tiến và phổ biến thông tin thị trường do Thương vụ Việt Nam tại Canada tổ chức trong năm 2022, các doanh nghiệp Canada đều thừa nhận Việt Nam là một thị trường tiềm năng, với nền chính trị-xã hội ổn định, tăng trưởng kinh tế ngoạn mục, thị trường tiêu dùng lớn, hạ tầng giao thông và công nghiệp phát triển, với mạng lưới các FTAs và cam kết quốc tế hấp dẫn. Tuy nhiên, các doanh nghiệp còn ngần ngại tìm đến với Việt Nam vì chưa có các doanh nghiệp lớn Canada mở đường, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước của Canada, các định chế ngân hàng tài chính và các Quỹ đầu tư của Canada. Thực tế cho thấy, trong luồng đầu tư của Canada vào châu Á-Thái Bình Dương 20 năm qua, khu vực doanh nghiệp Nhà nước của Canada chiếm vai trò rất quan trọng, trung bình tới 37% tổng đầu tư. Úc, Ấn Độ và Đài Loan sở dĩ thu hút được đầu tư nhiều nhất chính là nhờ thu hút luồng đầu tư của các Quỹ đầu tư Canada[2]. Thậm chí so với Campuchia, Việt Nam cũng kém lợi thế hơn về sự hấp dẫn vì Campuchia đã thu hút được sự có mặt hoạt động của 2 ngân hàng Canada là Banque Nationale và Desjardins.

Hiện nay, Việt Nam có ưu thế hơn các đối tác khác trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương ở 3 điểm: tăng trưởng ổn định và ở mức khá cao; ii. lạm phát thấp; iii. Các cân đối vĩ mô khả quan. Đây là thời điểm chúng ta cần tích cực vận động để lôi cuốn các nhà đầu tư Canada vào Việt Nam, nhất là các Quỹ đầu tư đang rất cần chuyển hướng đầu tư từ các địa bàn lạm phát cao. Hiện nay, lạm phát trung bình ở nhóm các nước G20 năm 2022 ước tính lên tới 8-9%. Lạm phát cao sẽ khiến các nhà đầu tư phải cân nhắc vì giá trị tài sản sẽ bị giảm do lạm phát và chuyển đổi tỷ giá. Thậm chí, ở một số địa bàn, lạm phát sẽ kéo theo nguy cơ bất ổn kinh tế, suy thoái, khủng hoảng, sẽ khiến các nhà đầu tư cân nhắc lại địa bàn đầu tư. Tính kết nối cao nhờ CPTPP, JEC và các triển vọng hợp tác logistics, vận tải biển giữa hai bờ Thái Bình Dương cũng là những điểm cộng để Việt Nam nhanh chóng bứt phá thu hút đầu tư trong giai đoạn này.

Tuy nhiên, ngoài những yếu tố về cải cách môi trường đầu tư, tạo thuận lợi về thủ tục cho các nhà đầu tư nước ngoài, kinh nghiệm thu hút thành công đầu tư từ Canada của các nước trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương cho thấy Việt Nam cần tăng cường hơn nữa chi tiêu vào R&D, đẩy mạnh năng lực R&D, song song với cải thiện hạ tầng và chất lượng nguồn nhân lực nghiên cứu và đội ngũ lao động. Các cơ hội đầu tư thường xuất hiện cùng với các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực R&D giữa Chính phủ và doanh nghiệp các nước. Giữa Việt Nam và Canada có nhiều lĩnh vực và nhiều thách thức cùng phải quan tâm giải quyết như: chuyển đổi năng lượng, biến đổi khí hậu, nông lâm nghiệp và nghề cá bền vững, an ninh lương thực… Đây là cơ sở tiềm tàng để thu hút đầu tư trong R&D và đầu tư sản xuất nói chung trong các ngành chế biến thực phẩm; sản xuất các sản phẩm và dịch vụ môi trường; sản xuất pin năng lượng và các thiết bị lưu trữ và thu hồi carbon… Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có nhiều cơ hội thu hút đầu tư của Canada vào các lĩnh vực dịch vụ như sàn trao đổi tín chỉ carbon, tư vấn dịch vụ số và chuyển đổi số, tư vấn thiết kế đô thị thông minh và dịch vụ viễn thông…

Song song với thu hút FDI của Canada vào Việt Nam, đã đến lúc chúng ta phải nghĩ đến thúc đẩy luồng đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài nói chung và vào Canada nói riêng. Đầu tư của Việt Nam vào Canada hiện nay theo ghi nhận của Cơ quan thống kê Canada giai đoạn 2003-2022 chỉ có giá trị chưa đến 14 triệu CAD, với 10 dự án. (Theo số liệu của Việt Nam, tính đến nay chúng ta có 16 dự án với tổng vốn đăng ký đạt 120,9 triệu USD vào Canada). Đầu tư của Việt Nam vào Canada là chìa khoá thúc đẩy tính kết nối chuỗi cung ứng và sản xuất giữa hai nước, từ đó cải thiện tính liên kết về logistics và vận tải và thúc đẩy thêm nữa đầu tư của Canada vào Việt Nam. Thị trường Canada và Hoa Kỳ có tính liên thông chặt chẽ, các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động ở Canada sẽ dễ dàng thâm nhập thị trường Hoa Kỳ với hơn 330 triệu người tiêu dùng. Canada có 13 sân bay quốc tế, 17 cảng biển quốc tế và mạng lưới đường sắt hàng hoá có lưu lượng trung chuyển lớn nhất châu Mỹ (250 tỷ CAD/năm), nối hai bờ Đông Tây cuả Canađa và giữa các cảng Vancouver, Prince Rupert ở bờ Tây với Halifax và Montreal ở bờ Đông. Canada cũng có tuyến đường sắt kết nối vùng Ngũ Hồ với một số thành phố lớn của Hoa Kỳ như: Pitsburgh, Detroit, Chicago, Winconsin, Memphis… tới cảng New Orleans để kết nối với Nam Mỹ qua Vịnh Mexico.

Thành lập doanh nghiệp ở Canada dễ dàng với chi phí thấp. Hệ thống pháp luật của Canada rõ ràng và minh bạch; pháp luật đầu tư của Canada rất ưu đãi với nhiều cơ chế hỗ trợ, đặc biệt đối với các dự án công nghệ hoặc có hàm lượng R&D cao[3]. Canada cũng có chính sách nhập cư thuận lợi, với lộ trình cho phép khoảng 500.000 người nhập cư mỗi năm cho đến 2025. Các doanh nghiệp đầu tư tại Canada được mang theo lao động với cơ chế khá dễ dàng (thậm chí, do cần lao động, trong đàm phán ASEAN-Canada FTA, Canada còn muốn tiến tới ký kết lưu chuyển tự do lao động).

Canada có thế mạnh về vốn, công nghệ, tài nguyên và đất đai; trong khi Việt Nam có thế mạnh về lao động, thị trường và tính kết nối nhờ FTAs. Việt Nam còn có khoảng trên 50 triệu tín chỉ carbon có thể thương mại hoá. Sự bổ trợ giữa hai nền kinh tế là tiền đề để các doanh nghiệp Việt Nam mạnh dạn đầu tư vào Canada, nhất là trong các lĩnh vực mà chúng ta có thế mạnh như: xây dựng, khai thác và chế biến khoáng sản, thương mại nông nghiệp, công nghiệp nhựa và cơ khí…

Sau đại dịch, Canada tiếp tục đầu tư lớn vào lĩnh vực hạ tầng, nhà dân dụng và xây dựng (đường sá, trường học, bệnh viện, hạ tầng viễn thông và truyền tải năng lượng). Các doanh nghiệp xây dựng của Việt Nam – với năng lực xây dựng tốt và với lợi thế về nhân công (giá và kỷ luật), chi phí thiết kế thấp – có rất nhiều cơ hội để thành công khi cạnh tranh ở thị trường Canada. Canada có nhiều mỏ khoáng sản (sắt, nickel, kẽm, đồng, đất hiếm, lithium, uranium…) với trữ lượng và quy hoạch khai thác công bố rõ ràng. Các doanh nghiệp Canada cũng có xu hướng thoái lui trong những lĩnh vực sử dụng nhiều lao động khác như nhựa, cơ khí, nông nghiệp… trong khi Canada lại vẫn cần để đảm bảo sự vận hành của nền kinh tế-xã hội. Thương mại điện tử và thương mại bán lẻ của Canada cũng là lĩnh vực còn nhiều cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam. Thành lập các tổng kho phân phối và giao hàng ở Canada không chỉ là lĩnh vực có lợi nhuận cao mà còn trợ giúp thiết thực cho các doanh nghiệp sản xuất ở trong nước mở rộng thị trường ra nước ngoài.

Kinh nghiệm thu hút thành công FDI Canada của các nước châu Á-Thái Bình Dương cho thấy, nếu muốn khơi thông dòng vốn FDI về dài hạn, tiếp tục thu hút các dự án đầu tư mới, đã đến lúc chúng ta phải thúc đẩy các doanh nghiệp của Việt Nam nâng quy mô, vươn ra quốc tế. Sự chững lại gần 10 năm của dòng vốn FDI Canada vào Việt Nam cho thấy đối với các nhà đầu tư chất lượng cao, lợi thế nhân công giá rẻ và thị trường chưa hẳn là chìa khoá hấp dẫn. Tất nhiên, sự thiếu vắng các định chế ngân hàng và tài chính, quỹ đầu tư của Canada ở Việt Nam cũng giải thích sự ngần ngại đầu tư của các doanh nghiệp Canada vào Việt Nam. Chúng ta sẽ cần chiến lược để hấp dẫn các định chế này để thúc đẩy làn sóng đầu tư mới của Canada. Nhưng bên cạnh đó, chiến lược đầu tư ra nước ngoài nói chung và vào Canada nói riêng của các doanh nghiệp Việt mới là sự đảm bảo lâu dài cho dòng chảy vốn và công nghệ từ Canada vào Việt Nam. Sự song hành của hai luồng đầu tư không chỉ tăng cường độ tin cậy, tính an toàn dòng vốn mà sẽ thực sự tạo ra sự kết nối từ nền tảng R&D, cho đến chuỗi cung ứng và sản xuất giữa hai nền kinh tế.

TS. Trần Thu Quỳnh, Tham tán Thương mại

[1] https://www.international.gc.ca/country-pays/vietnam/relations.aspx?lang=eng

[2] Các Quỹ đầu tư của Canada đều có chiến lược đa dạng hoá địa lý khi lựa chọn thị trường đầu tư và khá ưu tiên lựa chọn châu Á-Thái Bình Dương là điểm đến. Ví dụ Quỹ đầu tư lớn nhất của Canada CPPIB trong chiến lược đưa ra năm 2019 đã đặt trọng tâm vào thị trường châu Á-Thái Bình Dương và từ đó đến nay, đầu tư của CPPIB vào thị trường này đã tăng trung bình 12%/năm.

 

[3] https://www.investcanada.ca/programs-incentives

Nếu cần trao đổi thêm, xin liên hệ Thương vụ Việt Nam tại Canada theo địa chỉ ca@moit.gov.vn